Giới hạn của mô hình Hofstede Lý thuyết chiều văn hóa của Hofstede

Dựa vào những ứng dụng rộng rãi của mình, mô hình của Hofstede được coi như một nghiên cứu hoàn chỉnh nhất về các giá trị văn hóa quốc gia. Tuy nhiên, lý thuyết này vẫn tồn tại những hạn chế nhất định.

Trong tạp chí Academic of Management năm 2008, bài báo “Nhìn lại những thành tựu quản lý”, Galit Ailon đã phân tích những điểm còn hạn chế của cuốn sách “Hệ quả của văn hóa” mà Hofstede đã xuất bản. Ông đã sử dụng chính những luận điểm của Hofstede để phản bác lại lý thuyết này. Ailon tìm những mâu thuẫn trong cả lý thuyết và phương pháp phân tích dữ liệu từ những khía cạnh văn hóa đa chiều mà Hofstede đã nêu ra. .[11]

Trong số những luận điểm nêu ra về giới hạn của mô hình Hofstede, phổ biến nhất là những luận điểm của McSweetney[12]

Lựa chọn vấn đề cấp quốc gia

Ngoài năm chiều văn hóa của mô hình Hofstede, có những yếu tố văn hóa khác cần được phân tích. Cũng có những cấp độ khác nhau để đánh giá một nền văn hóa. Những cấp độ này thường được bỏ qua bởi cấu trúc và bản chất của chính chúng. Hơn nữa, những mẫu thử của mô hình Hofstede cho thấy sự chênh lệch về các đối tượng xã hội. Đối tượng phỏng vẫn chính là những người có quyền hành trong tổ chức, xã hội và quốc gia, chỉ có số lượng ít những cá nhân làm công tác kỹ thuật và bán hàng và chỉ một lượng rất nhỏ phụ nữ và những đối tượng từ vùng dẫn tộc thiểu số. Thậm chí, nếu quốc gia dùng những nghiên cứu này để quản lý sự giàu có, các vấn đề vĩ mô, quy mô dân số, mật độ và tốc độ tang trưởng thì những cá nhân nam giới làm công việc kỹ sư hoặc bán hàng tại các tổ chức lớn trên thế giới, đại diện cho những chiến dịch đầu tiên của con người, lại chẳng thể coi là đại diện cho chính quốc gia của họ. .[13]

Mức độ cá nhân: mối tương quan giữa các khía cạnh văn hóa và tính cách cá nhân

Hofstede nhận thức được rằng, các khía cạnh văn hóa mà ông đã xác định được, bao gồm văn hóa và các giá trị, đều là các nghiên cứu xây dựng dựa trên lý thuyết. Chúng là công cụ để áp dụng vào thực tế. Những đánh giá tổng quát về nền văn hóa của một quốc gia sẽ thực sự hữu ích khi chúng được coi là kim chỉ nam trong việc tìm hiểu về quốc gia đó. Đó là những khía cạnh theo nhóm, mô tả những đặc tính chung nhất của cả dân tộc. Các khía cạnh văn hóa của Hofstede cho phép người sử dụng phân biệt các quốc gia với nhau chứ không nói đến sự khác biệt của các cá nhân trong xã hội. Việc xác định tính cách cá nhân là không cần thiết khi bàn đến văn hóa quốc gia, bởi điểm đánh giá 1 quốc gia không bao giờ đồng nghĩa với việc nhận định, đánh giá cá nhân. Ví dụ, 1 người Nhật có thể rất thoải mái thích nghi với việc thay đổi môi trường trong khi thực tế nói chung, người Nhât hạn chế tối đa những thay đổi không chắc chắn. Tất nhiên, luôn có ngoại lệ. Học thuyết của Hofstede có thể so sánh với học thuyết tương tự ở mức độ cá nhân: học thuyết cá nhân về tích cách con người.

Có nhiều dạng biến thể của các dạng chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân đã được đề cập đến trước đây (Triandis, 1995; Gouveia và Ros, 2000). Cách thể hiện bản thân và chủ nghĩa cá nhân phát triển song hành cùng tăng trưởng kinh tế, văn hóa độc lập, và điều đó thực sự rất quan trọng với những cụm dân số nhỏ đang phải ganh đua tìm kiếm nguồn tài nguyên sống. Các cá thể có quyền lực nắm quyền tự chỗ ngay cả khi họ sống trong 1 nền văn hóa tập thể. Cũng giống như các nghiên cứu về chỉ số quyền lực, các bản khảo sát về chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể được tiến hành giữa các nước dựa trên phỏng đoán về tình hình phát triển kinh tế và nhân chủng học (Triandis, 2004), vì thế có thể chúng không thực sự nói lên 1 tổ chức nào nổi bật, hoặc những biến thể mang tính tổ chức hoặc cá nhân với những điều kiện kinh tế xã hội tương tự. Các quy kết cá nhân nên được tách biệt cẩn thận so với quy kết quốc gia (Smith et al., 2008). Trong khi đó, cá nhân là đối tượng cơ bản của phân tích tâm lý (Smith, 2004), hình thành xã hội của các cá nhân và sự tương tác của họ với xã hội là một vấn đề cần được nghiên cứu ở cấp độ của gia đình, đồng nghiệp, khu dân cư, trường học, thành phố, và cấp độ quốc gia với nét văn hóa đặc trưng được thống kê (Smith, 2004). S. Schwartz kiểm soát dữ liệu giá trị của mình với GNP và một chỉ số xã hội, dẫn đến bản đề xuất về chỉ số phân biệt các giá trị cá nhân và quốc gia chia thành từng nhóm (Schwartz, 1992; 1994) để so sánh đa văn hóa. Các giả định "đẳng cấu của các cấu trúc" đã được tập trung để quyết định cách sử dụng và hiểu về văn hóa trong các ngành khoa học quản lý (Van de Vijver et al 2008;. Fischer, 2009). Bởi vì không có cá nhân có thể nói lên suy nghĩ của mình hay tự làm các hành động có ý nghĩa mà hoàn toàn độc lập đến phần còn lại của xã hội, chủ nghĩa cá nhân có thể nói không hẳn là ý tưởng sáng giá cho văn hóa có ý nghĩa định. Phê bình hậu hiện đại bác bỏ khả năng tự xác định bản thân của bất kì cá nhân nào vì các đơn nhất, tự cá nhân là một ảo tưởng của xã hội đương đại, minh chứng bởi tính cần thiết của việc duy trì nói giống và mô phỏng trong ngôn ngữ và hành vi của các cá nhân tham gia vào để duy trì thành viên trong bất kỳ xã hội nào (Baudrillard, 1983; Alvesson & Deetz, 2006).[13]

Mức độ tổ chức

Bên trong và giữa các quốc gia, các cá nhân cũng là một phần của các tổ chức như các công ty. Hofstede thừa nhận rằng "[...] kích cạnh của nền văn hóa các quốc gia không liên quan đến việc so sánh các tổ chức trong cùng một quốc gia". Ngược lại với các nền văn hóa quốc gia được thể hiện qua các giá trị, văn hóa tổ chức được thể hiện qua thực tiễn.

Từ năm 1985 đến năm 1987, Viện IRIC của Hofstede (Viện Nghiên cứu về Hợp tác giữa các nền văn hóa) đã tiến hành một dự án nghiên cứu riêng biệt để nghiên cứu văn hóa tổ chức. Trong đó có 20 đơn vị tổ chức ở hai nước (Đan Mạch và Hà Lan), sáu chiều kích khác nhau của thực tiễn, hoặc các cộng đồng thực hành đã được xác định:

  • Định hướng theo quy trình và Định hướng theo kết quả 
  • Thiên hướng làm nhân viên và Thiên hướng làm chủ công 
  • việc
  • Giáo xứ và Nhân viên chuyên nghiệp 
  • Hệ thống mở và Hệ thống đóng 
  • Quản lý lỏng lẻo và Quản lý chặt chẽ 
  • Thực dụng và Quy chuẩn

Quản lý các tổ chức quốc tế liên quan đến sự hiểu biết các nền văn hóa quốc gia và tổ chức. Cộng đồng thực hành đến từ nhiều nước là điều tuyệt vời cho công ty đa quốc để duy trì hoạt động ổn định.

Mức độ nghề nghiệp

Trong phạm vi mức độ nghề nghiệp, có một mức độ nhất định của các giá trị và niềm tin mà mọi người giữ đối với các nền văn hóa quốc gia và tổ chức họ là một phần của chúng. Quản lý văn hóa là một nghề nghiệp có các thành phần từ các nền văn hóa quốc gia và tổ chức. Đây là một khác biệt quan trọng từ cấp độ tổ chức.

Mức độ giới tính

Khi mô tả các nền văn hóa, sự khác biệt giới tính phần lớn không được xem xét. Tuy nhiên, trong các cuộc thảo luận về giao tiếp giữa các nền văn hóa có một số yếu tố có ích để phân tích. Trong mỗi xã hội, văn hóa của người đàn ông khác nhau rất nhiều nền văn hóa của phụ nữ. Mặc dù nam giới và phụ nữ thường có thể thực hiện các nhiệm vụ tương tự theo quan điểm về mặt kỹ thuật, thường có các biểu tượng mà mỗi giới có một phản ứng khác nhau. Trong tình huống mà một giới phản ứng theo chiều hướng khác với vai trò của họ theo quy định, giới còn lại có thể thậm chí không chấp nhận vai trò giới tính lệch lạc của họ. Mức độ phản ứng của những người đã tiếp xúc với nền văn hóa nước ngoài có thể được so sánh tương tự như phản ứng của các hành vi giới tính của người khác phái. Các mức độ khác biệt về giới trong một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào các nền văn hóa trong đó dân tộc và lịch sử của nó.

Mô hình lưỡng cực được hình thành sau sự phân biệt điển hình giữa triết lý chính trị tự do hay chủ nghĩa xã hội. Mặc dù nền kinh tế tự do coi trọng sự quyết đoán, tự chủ, chủ nghĩa vật chất, gây hấn, tiền bạc, sự cạnh tranh và chủ nghĩa duy lý, phúc lợi xã hội lại tìm cách bảo vệ và cung cấp cho những người yếu đuối, tham gia nhiều hơn với môi trường, nhấn mạnh vào tính chất và phúc lợi, và một sự tôn trọng mạnh mẽ cho chất lượng cuộc sống và trách nhiệm tập thể. Xã hội nam giới làm chủ có những thành công nhất về mặt kinh tế trong giai đoạn nghiên cứu Hofstede của (Mỹ, Nhật Bản, Đức) với các xã hội phụ nữ thành công có một trong hai quần thể dân số nhỏ hơn, quy mô kinh tế nhỏ và / hoặc triết lý tập thể và phúc lợi mạnh (Scandinavia, Costa Rica, Pháp, Nước Thái Lan). Sự phân đôi nam-nữ tính chia tổ chức thành những loại hình thể hiện sự đồng cảm, tình đoàn kết, tập thể và phổ quát, hoặc cạnh tranh, tự chủ, công đức, kết quả và trách nhiệm. Khía cạnh này là chỉ tập trung nghiên cứu ở châu Âu và phân biệt giới tính (Gilligan, 1982)..[13]